Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ Từ 1615 Đến 1861: Quá Trình La
Khoa học và Công nghệ
Việc in từ điển này có ý nghĩa rất lớn: giúp thống nhất chính tả, là công cụ học hữu hiệu cho các giáo sĩ khi đi truyền giáo và hơn nữa đây còn như một cuốn từ điển giải thích phong tục tập quán của người An Nam thời đó.
Ở Roma năm 1649, Alexandre de Rhodes vận động Bộ Truyền giáo gửi đại diện tông tòa (vicaire apostolique) sang xứ An Nam. Không nhận được câu trả lời, De Rhodes gặp Giáo hoàng Innocent X để trình bày những thỉnh nguyện trên. Tòa thánh không thể quyết định, với sự chấp thuận của Giáo Hoàng, năm 1652, Rhodes phải sang Pháp để vận động vua và giới quý tộc Pháp đưa thêm linh mục sang miền Viễn Đông 5. Rhodes bị gửi sang Ba Tư năm 1654 trước khi nhìn thấy thành quả các cuộc vận động của mình. Năm 1658-165 9, ba Thừa sai người Pháp là François Pallu, Pierre Lambert de la Motte và Ignace Cotolendi được sắc phong làm giám mục và là giám mục hiệu tòa tại Đàng Ngoài, Đàng Trong và Trung Quốc. Hội Thừa sai Paris chính thức được thành lập năm 1663.
Trường tổng đào tạo linh mục được đặt tại Ayutthaya -Thái Lan năm 1666. Các giám mục tông tòa được cử tới Á Đông với nhiệm vụ đào tạo linh mục bản xứ. Tiếng La-tinh là ngôn ngữ bắt buộc trong các nghi thức công giáo. Một trong những thách thức với các thầy giảng người bản xứ là học tiếng La-tinh như Lambert de la Motte viết trong một báo cáo năm 1667 (Fauconnet-Bezelin 2006: 436). Việc học La-tinh khó đến nỗi Lambert de la Motte chấp nhận thụ phong cho một số linh mục người Việt năm 1668 mặc dù họ đ ọc tiếng La-tinh mà không hiểu. Nhiệm vụ dạy tiếng La-tinh được đặt ra cấp thiết. Các giám mục tông tòa hy vọng có thể biến La-tinh thành ngôn ngữ giao tiếp chung của các linh mục và thầy giảng tại trường Dòng.
Năm 1671, trường Dòng ở Ayutthaya có 25 chủng sinh trong đó có 6 người Việt (Forest 1998, T. 1: 197). Hai năm sau, số lượng chủng sinh là 17 thì có tới tận 12 người Đàng Trong và hai người Đàng Ngoài. Trước tình hình này, giám mục Laneau quyết định ưu tiên dạy tiếng Việt và chữ tiền Quốc ngữ cho các chủng sinh (Forest 1998, T. 1: 196). Chữ tiền Quốc ngữ trở thành chữ viết trung gian giữa các giám mục người nước ngoài và chủng sinh, linh mục bản xứ.
Văn khố của Hội Thừa sai Paris còn lưu trữ hàng trăm báo cáo do các linh mục người Việt viết. Văn bản đầu tiên được viết năm 1667 tại Đàng Trong (AME, V. 733, p. 477) và năm 1687 tại Đàng Ngoài (AME, V. 681, p. 20-21). Chúng ta biết rằng với chính sách đào tạo linh mục bản xứ dưới thời Hội thừa sai, các linh mục người Việt được phép viết báo cáo và gửi trực tiếp về trụ sở tại Paris. Nhưng tại sao các linh mục người Việt lại không viết bằng chữ Nho hoặc Nôm mà lại bằng tiền Qu ốc ngữ?
Khi các giám mục tông tòa đầu tiên tới Đại Việt, chữ Nho và chữ Nôm vẫn được sử dụng phổ biến để viết các cuốn giáo lý. Cho tới tận năm 1679, Deydier vẫn viết trong báo cáo của ông rằng các phép bí tích phải được viết bằng ngôn ngữ và chữ viết bản xứ để cho các linh mục có thể đọc được khi cử hành các nghi lễ (Marillier 1995, T. I: 13).
Nhưng theo báo cáo thường niên năm 1685, lính gác và quan bắt một người giúp việc trong nhà Dòng ở Nghệ An khi người này mang hai tập tài liệu viết bằng chữ Nho và chữ La-tinh. Tình cờ lính chỉ mở tập tài liệu ghi bằng chữ La-tinh, họ không hiểu nên để cho người giúp việc của nhà Dòng được đi tiếp. May mắn với người này hoặc là may mắn cho số phận của chữ Quốc ngữ vì "tất cả báo cáo viết bằng chữ viết của người bản xứ chứa toàn bộ thông tin quan trọng của truyền gi& #225;o nhưng bị cấm" (AME, V. 651, p. 128). Ngay lập tức Deydier ra lệnh, tất cả các giấy tờ, thông tin quan trọng cần được viết bằng con chữ La-tinh, tức chữ tiền Quốc ngữ.
Chính bước ngoặt quan trọng này mà chữ tiền Quốc ngữ được dạy, sử dụng trong cộng đồng công giáo trong vòng ba trăm năm trước khi nó được đưa vào trường học ở Đàng Trong năm 1861. Việc học và sử dụng chữ tiền Quốc ngữ phụ thuộc rất lớn vào các trường Dòng đặt tại các địa phương. Văn khố của Hội Thừa sai Paris lưu trữ rất nhiều văn bản viết tay của các linh mục Đàng Ngoài, nhưng từ năm 1700, tôi không tìm thấy báo cáo do linh mục Đàng Trong viết nữ ;a.
Vấn đề này có thể lý giải bằng việc lập các trường Dòng tại hai miền. Năm 1666, Deydier tập hợp 15 thầy giảng trong đó có Bentô Hiên [Thiện] et Giuong Hoè và thành lập trường Dòng đầu tiên tại Đàng Ngoài. Năm 1682, Deydier mở thêm một trường nữa tại Kiên Lao (Marillier 1995, T. I: 117). Trường thứ ba đặt tại Kẻ Cọc năm 1685 (Marillier 1995, T. I: 114). Một trường nữa đặt tại Kẻ Vĩnh năm 1713. Trong khi đó tại Đàng Trong, Lambert de la Motte đã thăm địa phận hai lần bí mật trong thời gian từ 1671 tới 1676. Gi 25;m mục tông tòa đầu tiên Louis Chevreuil được gửi tới Đàng Trong năm 1664, ông gặp hai linh mục Dòng Tên là Marques và Fuciti. Nhưng cũng năm đó Hiền Vương cấm đạo. Rồi những tranh chấp giáo phận giữa Dòng Tên, dòng Phan Sinh và Hội Thừa sai diễn ra khiến cho công việc truyền giáo gặp trở ngại, việc lập trường Dòng ở Đàng Trong cũng không được thực hiện. Hơn nữa cũng có rất ít người Đàng Trong được thụ phong linh mục. Cho tới năm 1690, cũng mới chỉ có 8 linh mục người Đàng Trong được thụ phong (Trương Bá Cần 2008, T. I : 219-233). Nhưng sau đó, các đại diện tông tòa buộc phải dựa vào các thầy giảng, nhưng các thầy giảng cũng chỉ phụ trách việc ghi sổ sách sinh tử, hay là những người mới tới, chứ không thể lo cử hành lễ.
Chính hoàn cảnh lịch sử như vậy đã khiến cho chữ tiền Quốc ngữ không phát triển ở Đàng Trong, cho đến khi Pigneaux de Béhaine dẫn chủng sinh về Hòn Đất lánh nạn năm 1765.
Lưu trữ của Hội Thừa sai Paris hiện còn giữ hai cuốn từ điển cùng niên đại (1772-1773). Cuốn từ điển đã được in bản Fac-similé mà chúng ta biết mang tên Pigneaux de Béhaine. Nhưng bản viết tay không phải do Pigneaux de Béhaine ký tên.
Vị giám mục Ardan này có thể giữ vai trò là người điều phối làm từ điển nhưng ông thể tham gia trực tiếp được như ông viết trong một bản báo cáo khác: "Sau mười tháng làm việc và với sự trợ giúp của tám người Đàng Trong, con vừa hoàn thành sáu bản cuốn từ điển có tất cả các chữ và tất cả các từ theo thứ tự alphabet" (AME, V. 994, p. 736). Vậy ai là những người Việt tham gia cuốn từ điển này? Bản báo cáo của Pigneaux de Béhaine nêu tên 6 người là: Chantra Toû (Tú ?), Antoine Lợi, Paul Nghị, André Loan, Dominique Vãng et Raphael Chay (Cháy ?) (AME, V. 994, p. 736-737), còn lại hai người vô danh.
Hơn nữa cuốn từ điển phản ảnh tư duy làm công cụ học tiếng của người bản xứ chứ không phải người nước ngoài. Thông thường khi một người nước ngoài học một ngôn ngữ mới, từ điển và ngữ pháp là hai công cụ không thể tách rời. Việc không có ngữ pháp đính kèm từ điển như các công trình ngôn ngữ của các thừa sai khắp nơi trên thế giới thời kỳ đó có thể giải thích cho việc cuốn từ điển này là do người Việt làm là chính.
Như vậy chữ tiền Quốc ngữ được sáng tạo ở Đàng Trong như một phương pháp học tiếng rồi cách ghi tiếng Việt này được truyền lại cho các thừa sai ở Đàng Ngoài thông qua hai nhịp cầu chính: Alexandre de Rhodes và António de Fontes. Việc các thừa sai hoàn thành một cuốn từ vựng ở Đàng Ngoài năm 1634 là cơ sở nền tảng để Alexandre de Rhodes soạn cuốn Việt-Bồ-La.
Dười thời Hội Thừa sai Paris, chữ tiền Quốc ngữ đã chuyển từ vai trò là một công cụ học tiếng sang thành một chữ viết trung gian, công cụ giao tiếp giữa các Thừa sai người nước ngoài và linh mục, thầy giảng người Việt. Quyết định của giám mục Deydier góp phần phổ biến chữ tiền Quốc ngữ trong các bản báo cáo của các linh mục. Cũng cần nhấn mạnh việc tổ chức các trường Dòng đóng góp rất quan trọng vào việc giảng dạy và gìn giữ chữ tiền Quốc ngữ trong vòng gần ba trăm năm trong lòng giáo hội. Chính các linh mục, chủng sinh người Việt góp phần to lớn vào việc gìn giữ, phát triển chữ tiền Quốc ngữ. □
Bài báo này trích ra từ luận án Tiến sĩ của tác giả với tiêu đề "La grammatisation du vietnamien (1615-1919): histoire des grammaires et de l'écriture romanisée du vietnamien". Tác giả đã bảo vệ thành công luận án vào tháng 11-2024 tại Université Sorbonne Nouvelle - Paris 3.
1 Thành lập năm 1540 do Giáo Hoàng Paul III phê chuẩn, đấng sáng lập là Ignace de Loyola. Ba vị Thừa sai đầu tiên là : Francesco Buzomi (1575-1639) ; Diogo Carvalho (1578-1624) ; António Dias (1585- ?).
2 Kể từ 1612, vua Nhật cấm đạo gắt gao. Rất nhiều giáo dân Nhật rời khỏi đất nước và tới sinh sống tại Hội An.
3 Hệ thống âm chính tiếng Việt được đảm nhiệm bởi 11 nguyên âm đơn (được ghi bởi 12 con chữ) và 3 nguyên âm đôi (được ghi bởi 6 con chữ).
4 Trang đầu của văn bản được xếp ở phần phụ lục.
5 Trong cuốn Divers voyages et missions (Hành trình truyền giáo), xuất bản năm 1653, Alexandre de Rhodes có ghi "envoyer des soldats" tức là gửi thêm chiến sĩ phúc âm. Theo từ điển ngữ nguyên tiếng Pháp do Giáo sư Alain Rey chủ biên, soldat ngoài nghĩa là người lính quân sự thì còn là người bảo vệ cho đức tin, ví dụ "soldat du Christ" tức người chiến sĩ phúc âm.